Từ kinh nghiệm quốc tế cho thấy: Chỉ dẫn địa lý (CDĐL) được công nhận mở ra các cơ hội vượt xa tính kinh tế, nó tồn tại trong bối cạnh rộng hơn giống như một hình thức gắn liền với sự phát triển nông thôn. Các sản phẩm CDĐL mang nhiều đặc tính của một thương hiệu cao cấp. Chúng có thể tác động đến toàn bộ chuỗi cung ứng và thiện chí liên quan đến sản phẩm và dịch vụ trong một khu vực với những nét đặc trưng riêng biệt. Các CDĐL nhận diện và xác nhận khái niệm “địa phương” thông qua cơ chế thị trường. Đây là minh chứng cho việc các CDĐL mang đến giá trị tiềm năng dài hạn không chỉ về mặt kinh tế mà còn cả mặt xã hội nằm ở khía cạnh công nhận các phong tục tập quán, thúc đẩy thương mại toàn cầu dựa trên sự ghi nhận những giá trị địa phương cốt lõi cho mỗi vùng miền. Đối với nhà sản xuất, CDĐL truyền đạt những thuộc tính đặc biệt cho phép họ phân biệt sản phẩm của mình và vượt ra khỏi quy luật giao dịch hàng hóa thông thường, chủ yếu thông qua giá cả. Thực tế cho thấy, Liên minh châu Âu đã gặt hái được thành công khi thúc đẩy vai trò của CDĐL như là phương tiện giao quảng bá sản phẩm, khẳng định giá trị truyền thống, một yếu tố quan trọng của chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn.
Tại Việt Nam, Xây dựng thương hiệu cho các sản phẩm nông sản của Việt Nam gắn với đăng ký bảo hộ CDĐL đã và đang trở thành một định hướng quan trọng nhằm gia tăng giá trị, khẳng định thương hiệu cho các sản phẩm đặc sản của Việt Nam. Đây được coi là công cụ hiệu quả để bảo vệ doanh nghiệp Việt cũng như đưa nông sản Việt Nam ra thế giới trong quá trình hội nhập kinh tế thế giới sâu rộng của nước ta hiện nay.
Khái niệm Chỉ dẫn địa lý
Định nghĩa về CDĐL lần đầu tiên được ghi nhận tại Điều 2 của Hiệp ước Lisbon 1958 đã được sửa đổi năm 1967 và 1979, theo đó: “Chỉ dẫn địa lý là tên địa lý của một nước, vùng hoặc địa phương dùng để chỉ dẫn xuất xứ của sản phẩm, mà chất lượng và những đặc tính của nó dựa trên các điều kiện môi trường địa lý độc đáo, ưu việt, bao gồm yếu tố tự nhiên và con người”.
Nhu cầu bảo hộ đối với các sản phẩm có chất lượng đặc thù của các quốc gia trên thế giới không ngừng tăng. Thương mại quốc tế phát triển khiến cho việc làm hàng nhái, hàng giả các sản phẩm nổi tiếng càng trở nên phổ biến. Điều này làm nảy sinh nhu cầu cần có những quy định cụ thể mang tính quốc tế nhằm bảo hộ đối tượng đặc biệt này.
Khái niệm CDĐL được pháp điển hóa thông qua các vòng đàm phán đa phương trong khuôn khổ Tổ chức thương mại thế giới thông qua Hiệp định về các khía cạnh thương mại liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ (Hiệp định TRIPS).
Chỉ dẫn địa lý là những chỉ dẫn về hàng hoá bắt nguồn từ lãnh thổ của một thành viên hoặc từ một khu vực hoặc địa phương thuộc lãnh thổ đó, có chất lượng, uy tín hoặc đặc tính chủ yếu do xuất xứ địa lý quyết định (Khoản 1, Điều 22 Hiệp định TRIPS).
Việt Nam coi CDĐL là đối tượng bảo hộ sở hữu trí tuệ với khái niệm theo Khoản 22, Điều 4, Luật SHTT như sau:
Chỉ dẫn địa lý là dấu hiệu dùng để chỉ nguồn gốc địa lý của sản phẩm từ khu vực, địa phương, vùng lãnh thổ hoặc quốc gia cụ thể.
Chỉ dẫn địa lý đồng âm là các chỉ dẫn địa lý có cách phát âm hoặc cách viết trùng nhau.
Luật số 07/2022/QH15 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật SHTT đã có sửa đổi một phần khái niệm CDĐL và bổ sung khái niệm CDĐL đồng âm.
Bên cạnh đó, Điều 88 của Luật Sở hữu trí tuệ sửa đổi năm 2022 quy định quyền đăng ký CDĐL của Việt Nam thuộc về Nhà nước. Nhà nước cho phép tổ chức, cá nhân sản xuất sản phẩm mang CDĐL, tổ chức tập thể đại diện cho các tổ chức, cá nhân đó hoặc cơ quan quản lý hành chính địa phương nơi có CDĐL thực hiện quyền đăng ký CDĐL. Tổ chức, cá nhân thực hiện quyền đăng ký CDĐL không trở thành chủ sở hữu CDĐL đó.
Một số vấn đề liên quan đến bảo hộ chỉ dẫn địa lý
CDĐL xuất hiện do nhu cầu của những người sản xuất muốn đánh dấu cho các sản phẩm của mình để nhằm phân biệt sản phẩm do họ sản xuất với sản phẩm đến từ những vùng khác. Càng ngày, các nhà sản xuất càng ý thức được vai trò quan trọng như một phương tiện xúc tiến thương mại, làm gia tăng giá trị và uy tín cho sản phẩm, mang lại những lợi ích kinh tế to lớn cho người sử dụng CDĐL, như tạo sự lôi cuốn, hấp dẫn khách hàng; sản phẩm bán chạy hơn và giá thành sản phẩm cũng cao hơn so với những sản phẩm khác cùng loại không được sản xuất ở khu vực địa lý đặc biệt đó. Người tiêu dùng cũng dựa vào những dấu hiệu chỉ dẫn nguồn gốc địa lý để nhận biết và lựa chọn sản phẩm. Có thể nói, được sử dụng những CDĐL đã trở nên nổi tiếng là mong muốn của hầu hết các nhà sản xuất. Vì vậy, các chủ thể khác, vì mục đích lợi nhuận có thể sẵn sàng tìm mọi cách để lợi dụng danh tiếng, uy tín từ CDĐL của người khác.
Việc sử dụng CDĐL bất hợp pháp không những có thể gây tổn hại đến uy tín và lợi ích của những người sản xuất ở khu vực địa lý đó mà còn gây thiệt hại cho người tiêu dùng khi mua nhầm phải những hàng hóa không đúng nguồn gốc, làm mất lòng tin của công chúng vào những dấu hiệu vẫn giúp họ xác định nguồn gốc của sản phẩm. Uy tín sản phẩm càng cao thì nhu cầu bảo hộ CDĐL lại càng lớn. Đó là nhu cầu bảo vệ quyền được thông tin đúng sự thật của người tiêu dùng khi lựa chọn hàng hóa và nhu cầu bảo vệ thành quả đầu tư của những người sản xuất tại địa phương trong việc xây dựng uy tín cho sản phẩm.
Từ đó, một vấn đề đặt ra là nếu việc bảo hộ CDĐL chỉ dừng lại ở việc ghi nhận quyền của con người sử dụng CDĐL thì chưa đủ mà còn cần phải quy định các cơ chế hữu hiệu bao gồm những phương thức và biện pháp nhất định để có thể ngăn chặn và chống lại hành vi xâm phạm từ phía các chủ thể khác. Vì vậy, pháp luật các quốc gia bên cạnh việc quy định khung pháp lý trong việc xác lập và thực hiện quyền sở hữu công nghiệp đối với CDĐL còn có những quy định bảo vệ CDĐL chống lại hành vi xâm phạm và các biện pháp ngăn chặn, xử lý các hành vi này.
Thực tế, CDĐL càng nổi tiếng càng có uy tín rộng rãi trên thị trường thì nhu cầu bảo hộ CDĐL đó chống lại các hành vi xâm phạm quyền đối với CDĐL càng lớn.
Bảo hộ CDĐL được hiểu là: Nhà nước thông qua các quy định pháp luật quy định việc xác lập, công nhận và thực hiện quyền đối với CDĐL, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể chống lại hành vi xâm phạm CDĐL.
Bảo hộ CDĐL là một nhu cầu tất yếu bởi khi pháp luật quy định quyền của người sản xuất kinh doanh đối với CDĐL đồng thời, quyền đó cũng phải được pháp luật bảo vệ, những hành vi mang tính xâm phạm quyền từ các chủ thể khác phải được ngăn chặn một cách kịp thời, chính xác, đồng thời phải có chế tài để xử lý các hành vi này, vừa mang tính chất trừng phạt chủ thể vi phạm, vừa mang tính chất răn đe.
Bảo hộ CDĐL là một quá trình dài và phức tạp, đòi hỏi sự đầu tư lớn. Nhà nước – chủ sở hữu CDĐL là chủ thể thực hiện việc bảo hộ, thông qua hoạt động của các cơ quan chức năng và sự phối hợp của các tổ chức, cá nhân có quyền lợi liên quan. Không chỉ đơn thuần là sử dụng các công cụ pháp luật nghiêm cấm và xử phạt đối với các hành vi xâm phạm quyền, việc bảo hộ CDĐL bao gồm cả việc tiến hành đăng ký và quản lý CDĐL.
Trong bối cảnh nền kinh tế toàn cầu, việc bảo hộ CDĐL không còn chỉ bó hẹp trong pháp luật quốc gia mà nó trở thành vấn đề quốc tế được quy định trong các điều ước quốc tế song phương và đa phương.
Điều kiện bảo hộ chỉ dẫn địa lý
Các vấn đề liên quan đến điều kiện bảo hộ CDĐL được quy định chi tiết tại các Điều 79, Điều 80 và Điều 88 Luật Sở hữu trí tuệ sửa đổi 2022. Cụ thể:
Điều 79 Luật Sở hữu trí tuệ sửa đổi 2022 quy định điều kiện chung bảo hộ đối với CDĐL:
Điều 80 Luật Sở hữu trí tuệ sửa đổi 2022 quy định các đối tượng sau đây không được bảo hộ với danh nghĩa chỉ dẫn địa lý:
Điều 88 Luật Sở hữu trí tuệ sửa đổi 2022 quy định quyền đăng ký CDĐL như sau:
Hình thức bảo hộ chỉ dẫn địa lý
Bảo hộ chỉ dẫn bằng pháp luật riêng: Pháp là nước đầu tiên và điển hình trong việc bảo hộ CDĐL bằng một luật riêng. Đây là nơi mà luật đầu tiên về bảo hộ CDĐL được thông qua, trong đó quy định về một hình thức sở hữu công nghiệp đặc biệt đó là tên gọi xuất xứ hàng hóa. Nội dung bảo hộ một CDĐL là chống việc sử dụng các CDĐL thương mại trùng hoặc tương tự với CDĐL đó cho sản phẩm không đạt các chỉ tiêu pháp lý (không có nguồn gốc từ khu vực địa lý tương ứng không đạt các chỉ tiêu về sản phẩm hoặc các chỉ tiêu về quy trình sản xuất sản phẩm).
Bảo hộ CDĐL bằng pháp luật về nhãn hiệu tập thể, nhãn hiệu chứng nhận: Nhãn hiệu tập thể và nhãn hiệu chứng nhận có thể dùng để bảo hộ từ những chỉ dẫn nguồn gốc đơn thuần đến CDĐL và tên gọi xuất xứ, kể cả những CDĐL đã được xác lập các chỉ tiêu pháp lý. Cả hai hình thức bảo hộ này đặc biệt có ý nghĩa để các doanh nghiệp hoặc hiệp hội doanh nghiệp chủ động phát huy vai trò của giới tư nhân. Tuy nhiên, cả hai hình thức bảo hộ này chỉ có hiệu quả trong một chừng mực nhất định vì chỉ có thể kiểm soát những người tự nguyện sử dụng các nhãn hiệu chứa CDĐL mà không cấm những người không gia nhập tập thể và những người không chịu sự giám định, chứng nhận sản phẩm sử dụng CDĐL.
Bảo hộ CDĐL bằng pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh: Chống cạnh tranh không lành mạnh có nội dung chống hành vi sử dụng các chỉ dẫn thương mại làm sai lệch nhận thức và thông tin về hàng hóa nhằm gây nhầm lẫn về xuất xứ hàng hóa cho người tiêu dùng trong quá trình nhận biết, chọn lựa hàng hóa, với điều kiện hành vi sử dụng đó gây thiệt hại hoặc có nguy cơ gây thiệt hại cho các chủ thể kinh doanh hoặc người tiêu dùng. Hình thức bảo hộ này chỉ nhằm vào việc bồi thường thiệt hại gây ra do việc sử dụng CDĐL sai trái. Đối với hình thức bảo hộ không cần đăng ký này khi xảy ra xâm phạm quyền thì việc chứng minh sự đáp ứng các điều kiện để được hưởng sự bảo hộ thuộc nghĩa vụ của chủ thể quyền và thường gặp khó khăn, tốn kém.
Vai trò của chỉ dẫn địa lý
Đối với việc xúc tiến thương mại, CDĐL là một công cụ hữu hiệu, đặc biệt với kinh doanh xuất khẩu. CDĐL mang lại giá trị gia tăng, giúp sản phẩm thâm nhập thị trường và phát triển một cách nhanh chóng, dễ dàng nhờ chất lượng và uy tín của sản phẩm gắn CDĐL. Do những đặc tính riêng biệt của sản phẩm mang CDĐL mà chúng được nhận biết tốt hơn trên thị trường. Điều này khiến cho việc thực hiện chiến lược marketing hay các hoạt động xúc tiến thương mại trở nên dễ dàng và hiệu quả hơn rất nhiều. CDĐL mạnh cũng giống như một thương hiệu mạnh luôn tìm được chỗ đứng vững chắc trên thị trường để phát triển bền vững.
CDĐL có nhiều tác dụng kinh doanh mạnh mẽ giống như tác dụng của nhãn hiệu hàng hóa. Tầm cỡ của những đặc sản địa phương có thể được nâng lên trong con mắt người tiêu dùng khi một cộng đồng người địa phương và các thành viên của cộng đồng được hưởng độc quyền để sử dụng một CDĐL riêng biệt. Ngoài ra, CDĐL có thể bổ sung cho sản phẩm khả năng marketing rất năng động, đặc biệt khi chất lượng làm nên sự nổi tiếng của một vùng được bảo hộ thực sự bằng kinh nghiệm của người sử dụng qua thời gian vì CDĐL vốn dĩ thuộc sở hữu tập thể nên chúng là công cụ tuyệt vời đối với sự phát triển kinh tế khu vực và kinh tế dựa trên cộng đồng.
CDĐL còn giúp bảo vệ và giữ gìn các di sản truyền thống lâu đời về ẩm thực, đặc sản, nghề thủ công… Vì vậy, việc giữ gìn những nét đẹp văn hóa của địa phương góp phần to lớn vào sự nghiệp phát triển công nghiệp du lịch, đặc biệt là du lịch sinh thái của vùng, thu hút lượng khách du lịch quan tâm tìm hiểu ngành nghề truyền thống, đồng thời góp phần phát triển các ngành dịch vụ phụ trợ, đem lại nguồn lợi ích kinh tế cao cho cư dân địa phương thông qua các hoạt động xuất khẩu tại chỗ.
Như vậy, CDĐL nằm trong nhóm đối tượng được bảo hộ thông qua sở hữu công nghiệp, cơ quan quản lý và cấp văn bằng bảo hộ là Cục sở hữu trí tuệ (Bộ Khoa học và Công nghệ). Bên cạnh đó, bảo hộ CDĐL được thể hiện trong nhiều văn bản pháp luật của các bộ ngành liên quan đặc biệt là các văn bản của Bộ Công Thương, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Y tế…
Thực tiễn bảo hộ và sử dụng chỉ dẫn địa lý cho nông sản tại Việt Nam
Bảo hộ CDĐL đã và đang được nhiều quốc gia trên thế giới xây dựng, phát triển và sử dụng không chỉ như một bằng chứng bảo đảm với người tiêu dùng về nguồn gốc, xuất xứ sản phẩm, mà còn là công cụ hữu hiệu để quảng bá, nâng cao giá trị và khả năng cạnh tranh của sản phẩm.
CDĐL đang cho thấy vai trò quan trọng trong phát triển xuất khẩu, thể hiện trên bốn phương diện: (1) CDĐL bảo vệ nhà sản xuất chống lại nạn hàng giả và bảo vệ người tiêu dùng không để bị đánh lừa; (2) CDĐL hỗ trợ việc xúc tiến thương mại và là một hộ chiếu cho xuất khẩu, bởi lẽ nó là cơ sở bảo đảm uy tín , sản phẩm đến từ gốc và có chất lượng được khẳng định bằng chính tên gọi của vùng lãnh thổ và được quốc tế công nhận; (3) CDĐL là một công cụ để phát triển nông thôn và mở ra một cách sản xuất khác: Giữ gìn và hồi sinh năng lực các vùng nông thôn; tăng thêm giá trị của sản xuất theo phương pháp truyền thống; cho phép quảng bá di sản nông nghiệp của quốc gia đồng thời giữ được truyền thống văn hoá; bảo vệ và phát triển đa dạng sinh học; (4) CDĐL góp phần thực hiện sự công bằng kinh tế, bởi lẽ sự phong phú về các CDĐL tiềm năng được phân bổ đều giữa các nước đã phát triển và các nước đang phát triển. Mặt khác, CDĐL được các quốc gia bảo hộ, với mức chi phí thấp đối với các nhà sản xuất.
Với sự đa dạng về điều kiện sinh thái, địa hình, khí hậu, thổ nhưỡng, truyền thống và kinh nghiệm sản xuất, Việt Nam có lợi thế trong sản xuất và cung cấp nhiều sản phẩm nông nghiệp đặc sản địa phương. Chỉ trong hơn 10 năm trở lại đây, Việt Nam đã chú trọng phát triển thương hiệu của nông sản (thương hiệu cá nhân, thương hiệu cộng đồng) với mục đích bảo hộ và tạo động lực thúc đẩy phát triển sản xuất, thương mại dựa trên những lợi thế về điều kiện sản xuất.
Với sự đa dạng về điều kiện sinh thái, địa hình, khí hậu, thổ nhưỡng, truyền thống và kinh nghiệm sản xuất, Việt Nam có lợi thế trong sản xuất và cung cấp nhiều sản phẩm nông nghiệp đặc sản địa phương. Tính đến tháng 6/2024, Việt Nam đã có 117 CDĐL được bảo hộ trong nước; 02 CDĐL được bảo hộ tại Nhật Bản: vải thiều Lục Ngạn, thanh long Bình Thuận (2021); 02 CDĐL được bảo hộ tại Thái Lan: Cà phê Buôn Ma Thuột (2014), Chè Shan Tuyết Mộc Châu (2018); 01 CDĐL được bảo hộ tại Liên bang Nga: Cà phê Buôn Ma Thuột (2012); 39 CDĐL của Việt Nam được bảo hộ tại EU thông qua EVFTA. Hiệu quả của bảo hộ CDĐL đã được chứng thực trên thực tế, đó là giá trị và uy tín của nhiều sản phẩm gia tăng đáng kể, ví dụ mật ong bạc hà Mèo Vạc sau khi bảo hộ CDĐL, kiểm soát nguồn gốc, chất lượng, quảng bá sản phẩm đã tăng giá gần gấp đôi, tương tự nước mắm Phú Quốc tăng giá từ 30-50%, bưởi Phúc Trạch tăng từ 30-35%, cam Vinh tăng hơn 50% sau khi được bảo hộ CDĐL.[1]
Tất cả những thành quả đó khẳng định việc xây dựng thương hiệu cho các sản phẩm nông sản đặc sản gắn với đăng ký bảo hộ CDĐL ngày càng trở thành một định hướng quan trọng nhằm gia tăng giá trị cho sản phẩm, khẳng định thương hiệu cho nông sản đặc sản của Việt Nam.
Quản lý chỉ dẫn địa lý
Để thúc đẩy hoạt động đăng ký bảo hộ CDĐL, bảo vệ và phát huy loại tài sản trí tuệ này, đòi hỏi sự vào cuộc của cả hệ thống từ Nhà nước, đến chính quyền địa phương, tất cả các hội nghề nghiệp, các nhà sản xuất, chế biến và các bên liên quan. Các cơ quan quản lý nhà nước cần có giải pháp tổng thể tuyên truyền, nâng cao nhận thức vai trò thương hiệu, giúp doanh nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh, giá trị sản phẩm trên thị trường, từ đó nâng cao nhận thức, vai trò của bảo vệ thương hiệu; hỗ trợ về thông tin, pháp lý cho doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp nhỏ và vừa về vấn đề đăng ký bảo hộ nhãn hiệu/thương hiệu nói riêng và bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ nói chung; giám sát việc xâm hại bản quyền nhãn hiệu của Việt Nam trên các thị trường, hỗ trợ kỹ thuật thông qua việc cung cấp các khoá đào tạo tập huấn, đăng ký bảo hộ sở hữu trí tuệ tại thị trường trong nước và một số thị trường xuất khẩu trọng điểm...
Các cơ quan quản lý nhà nước cũng cần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, nâng cao hiệu quả hoạt động thực thi quyền sở hữu trí tuệ - bảo hộ CDĐL; thúc đẩy các hoạt động tạo ra tài sản trí tuệ; khuyến khích, nâng cao hiệu quả khai thác; phát triển tài sản sở hữu trí tuệ. Đồng thời, tăng cường nguồn nhân lực cho hoạt động sở hữu trí tuệ và xây dựng văn hóa sở hữu trí tuệ - bảo hộ CDĐL mang đặc trưng, ưu thế riêng của Việt Nam.
Bản thân doanh nghiệp, các hợp tác xã sản xuất và người dân cần thiết phải liên tục cải tiến sản phẩm, không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm hàng hóa nhằm giữ vững được thương hiệu. Các doanh nghiệp cần phải nhận thức rõ tầm quan trọng, xây dựng thương hiệu phải gắn với bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ - bảo hộ CDĐL. Để không bị mất thương hiệu và nhãn hiệu của mình, các doanh nghiệp Việt phải chủ động rà soát và đăng ký sớm các quyền sở hữu trí tuệ ở các thị trường nước ngoài. Đặc biệt cần lưu ý bảo hộ: nhãn hiệu, thương hiệu, kiểu dáng, sáng chế, giải pháp hữu ích. Khi phát hiện quyền sở hữu trí tuệ của mình bị mất, cần nhanh chóng nghiên cứu thu thập chứng cứ, nộp đơn phản đối, hủy bỏ hoặc đình chỉ hiệu lực quyền sở hữu trí tuệ - bảo hộ CDĐL.
Tạo dựng được một hệ thống bảo hộ sở hữu trí tuệ - bảo hộ CDĐL mạnh và hoàn thiện đó là một nhân tố không thể thiếu trong chiến lược phát triển kinh tế dài hạn của bất kỳ quốc gia nào. Đó là một đòi hỏi bắt buộc trong quá trình hội nhập kinh tế, nên rất cần sự tích cực vào cuộc có trách nhiệm của các cấp, các ngành, các địa phương cũng như sự chủ động từ phía các doanh nghiệp, các hợp tác xã sản xuất và người dân.
Cà phê Đăk Hà tổng hợp
[1] Cục Sở hữu trí tuệ